Tết Trung Thu nói chuyện về vầng trăng
Vầng trăng, từ ngàn xưa vẫn treo cao trên bầu trời khi tròn khi khuyết, là nhân chứng của hết thảy cảnh tan hợp, vui buồn chốn nhân gian. Sự thay đổi của vầng trăng, hết tròn rồi lại khuyết, giống hệt như chuyện sum họp rồi chia ly nơi con người, vậy nên từ xưa đến nay điều khiến lòng người rung động nhất không gì hơn là vầng trăng sáng trong đêm Trung thu. Cũng từ trước đến nay đã có vô số thi nhân lấy vầng nguyệt làm đề tài ngâm vịnh, với tâm tình khi thì vui sướng khi thì thương cảm, có lúc lại phóng khoáng, dưới ánh trăng chiếu rọi lịch sử văn học đã sinh ra biết bao áng văn chương bất hủ, trong đó kinh điển nhất phải kể đến bài Thủy điệu ca đầu – Trung thu của Tô Thức.
Thuỷ điệu ca đầu:
Minh nguyệt kỷ thời hữu, bả tửu vấn thanh thiên.
Bất tri thiên thượng cung khuyết, kim tịch thị hà niên.
Ngã dục thừa phong quy khứ, hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ,
Cao xứ bất thắng hàn.
Khởi vũ lộng thanh ảnh, hà tự tại nhân gian.
Chuyển chu các, đê ỷ hộ, chiếu vô miên.
Bất ưng hữu hận, hà sự trường hướng biệt thời viên.
Nhân hữu bi hoan ly hợp, nguyệt hữu âm tình viên khuyết,
Thử sự cổ nan toàn.
Đãn nguyện nhân trường cửu, thiên lý cộng thiền quyên.
Diễn nghĩa:
Vầng trăng sáng có từ khi nào, nâng chén hỏi trời xanh.
Chẳng biết trên cung điện nơi trời cao, đêm nay là năm nào.
Ta muốn cưỡi gió trở về, lại e nơi lầu quỳnh điện ngọc,
Ở trên cao không thắng nổi cái lạnh.
Cất bước múa cùng ánh sáng trong, nào giống nơi trần thế.
Xoay quanh gác đỏ, soi xuống song, chiếu người không ngủ.
Lẽ ra không có oán hận, cớ sao thường tròn lúc ly biệt
Người có buồn vui hợp tan, trăng có mờ tỏ tròn khuyết,
Chuyện đời xưa nay vốn khó trọn vẹn
Chỉ nguyện người trường cửu, cùng ngắm vầng trăng sáng dù cách ngàn dặm
Sau đây chúng ta hãy cùng nhau điểm qua những giai thoại thú vị liên quan đến Tết Trung thu bạn nhé!
Nguồn gốc của Trung thu
Tết Trung thu diễn ra vào ngày 15 tháng 8 âm lịch hằng năm, thường rơi vào khoảng tháng 9 – 10 dương lịch. Vào thời Trung Quốc cổ đại ngày rằm tháng tám được gọi là Trung thu, còn có các tên khác như Tết tháng tám, tết giữa tháng tám, nguyệt tịch, nguyệt tiết, đêm rằm, là một trong bốn lễ truyền thống lớn của người Hán.
Tết Trung thu được nhắc đến sớm nhất trong Chu lễ. Trong sách Lễ ký thiên Nguyệt lệnh Khổng Tử viết rằng: “Vào tháng Trung thu, chăm sóc người già yếu, dùng cháo loãng làm thức ăn”, đồng thời cũng đề cập đến hoạt động tế bái mặt trăng trong dịp này.
Từ sau thời Đường Tết Trung thu trở thành ngày lễ mà hoàng đế ban thưởng cho quần thần. Đến thời Minh - Thanh, Trung thu đã trở thành một ngày lễ truyền thống lớn của Trung Quốc. Trong bộ sách Chính Đức Giang Ninh huyện chí có ghi chép: “Vào đêm Trung thu, mọi người ở Nam Kinh nhất định sẽ thưởng trăng; dịp cả nhà cùng nhau ngắm trăng gọi là ‘khánh đoàn viên’, việc ngồi quây quần uống rượu gọi là ‘viên nguyệt’, ra ngoài dạo chơi ở chợ gọi là ‘tẩu nguyệt’.”
Ảnh: shenyuncollections.com
Truyền thuyết về Trung Thu
Tại Trung Quốc và ở các khu vực Hoa ngữ khác, truyền thuyết liên quan đến mặt trăng được mọi người biết đến nhiều nhất có lẽ chính là câu chuyện Hằng Nga bôn nguyệt.
Dân gian cho rằng Hằng Nga là vợ của anh hùng bắn mặt trời Hậu Nghệ. Hai vợ chồng nhận được tiên dược do thần tiên ban tặng, vốn dĩ nên chia nhau cùng uống nhưng Hằng Nga vô tình đã uống hết tất cả. Sau khi uống tiên dược nàng không làm chủ được thân thể, từ từ bay lên không trung, phiêu diêu đến cung Quảng Hàn lạnh lẽo trên mặt trăng và từ đó ở lại nơi ấy. Tương truyền bên cạnh Hằng Nga có thỏ ngọc giã thuốc, ngoài ra còn có Ngô Cương đang ngày ngày chặt cây quế thần.
Trong truyền thuyết Việt Nam có một cậu bé tên là A Quý (1) cầm cây bồ đề đi khắp nhân gian chữa bệnh cho mọi người. Một ngày nọ cành bồ đề trong tay A Quý bỗng bay vút lên trời, đưa cậu bay vào cung trăng. Người dân ghi nhớ công đức chữa bệnh của A Quý, nên cứ đến rằm tháng tám hằng năm lại treo đèn lồng để mừng A Quý thành tiên.
Truyền thuyết Đường Huyền Tông du ngoạn cung trăng là một trong những tiết mục kinh điển của Shen Yun. Cuộc đời của Đường Huyền Tông nhuốm đầy màu sắc thần bí, nhiều lần gặp dị nhân, bản thân ông lại tinh thông âm luật, đồng thời cũng là người sáng lập học viện âm nhạc hoàng gia đầu tiên - Lê Viên (2).
Tương truyền rằng Đường Huyền Tông từng nằm mộng bay lên cung trăng, được tiên nữ trên nguyệt cung truyền dạy khúc “Tử Vân Hồi” và “Nghê Thường Vũ Y”. Khi tỉnh dậy, ông đã ghi lại những điệu nhạc ấy và cho lưu truyền rộng khắp.
Bánh trung thu
Bánh trung thu có hình tròn hoặc vuông, có vị mặn hoặc ngọt, là món ăn không thể thiếu trong dịp Tết Trung Thu. Vào thời cổ đại bánh trung thu được dùng làm lễ vật cúng tế và là món ăn trong dịp này. Theo sách Lạc Trung kiến văn, vào ngày Tết Trung Thu, Đường Hi Tông từng ra lệnh cho ngự thiện phòng dùng vải lụa đỏ gói bánh để ban thưởng cho các tiến sĩ tân khoa. Tương truyền vào thời Bắc Tống loại bánh này được gọi là bánh cung đình vì chỉ xuất hiện trong chốn hoàng cung, nhưng bằng một cách nào đó nó cũng truyền ra dân gian, khi ấy dân gian gọi là “tiểu bính” (bánh nhỏ) và “nguyệt đoàn” (bánh tròn như vầng trăng). Trong bài thơ Lưu biệt Liêm Thủ của Tô Đông Pha từng nhắc đến: “Tiểu bính như tước nguyệt, trung hữu tô hòa di” (bánh nhỏ như thưởng thức trăng, bên trong có bơ và đường mật).
Từ thời nhà Thanh đã có sách ghi chép chi tiết về phương pháp làm bánh trung thu. Chẳng hạn, nữ tác gia đồng thời cũng là nữ đại phu Tăng Ỷ vào cuối đời Thanh trong tác phẩm “Trung Quỹ Lục” có ghi lại cách làm bánh trung thu ngàn lớp như sau:
“Dùng bột trắng, một nửa đem hấp chín trong xửng, tránh để hơi nước thấm vào; một nửa để sống, dùng mỡ heo và nước nguội nhào thành bột. Phần bột đã hấp chín thì hoàn toàn dùng mỡ heo để trộn. Lấy một cục bột sống bọc bên trong một cục bột chín nhỏ; dùng cán bột cán thành miếng tròn to bằng miệng chén trà, rồi gấp thành hình vuông; tiếp tục cán thành tròn, rồi lại gấp thành vuông; sau đó bọc nhân. Dùng khuôn ấn thành hình bánh, cho vào lò nướng chín là được. Nhân dầu thì dùng bột chín trộn với đường và hồ đào (hạt óc chó) cùng các loại khác, thêm chút dầu mè thì nhân sẽ không bị rời.”
Phương pháp này rất giống với cách làm bánh trung thu kiểu Tô Châu ngày nay.
Ghi chú:
(1) Trong một số truyền thuyết của Việt Nam A Quý được gọi là chú Cuội
(2) Lê viên (khu vườn lê): vườn thượng uyển trong cung, là nơi các nhạc công chơi nhạc cụ và các cung nữ học múa hát. Do Đường Huyền Tông có tài âm nhạc, đã tuyển chọn ba trăm con em nhà nghề về dạy ở đây.
Tác giả: Evan Mantyk
Nguồn: shenyuncollections.com