Thiên Kỷ Đại Cát

Long phụng thiên duyên - chuyện tình của chàng Tiêu Sử và nàng Lộng Ngọc

12 tháng 10 2025
THIÊN KỶ ĐẠI CÁT

Trong nền văn minh thần truyền 5000 năm của Trung Hoa dường như nơi nào cũng thấm đẫm bầu không khí văn hóa cầu đạo, tu tiên. Để rồi cho đến ngày nay, từ ngôn ngữ cho đến những phong tục của con người hiện đại nếu truy tìm nguồn gốc thì đều có ý nghĩa sâu xa.

Chẳng hạn có bao giờ bạn nghĩ tại sao trong văn hóa truyền thống, rồng và phượng thường tượng trưng cho hôn nhân? Như đồ dùng trong lễ cưới phải có hoa văn ‘long phụng trình tường’ (rồng, phượng báo điềm lành), trong hôn lễ phải thắp ‘nến long phụng’, cô dâu thì đội ‘mũ phượng’, còn chàng rể thì được gọi là ‘rể hiền cưỡi rồng’… Thật ra đằng sau đó là cả một điển tích mang đậm chất thần tiên.

Chuyện kể rằng vào thời Xuân Thu có người dâng cho Tần Mục Công (705 TCN – 621 TCN) một khối ngọc, sau khi mài đục ra thì được một viên mỹ ngọc xanh biếc, trong suốt không tì vết, Mục Công vô cùng yêu thích. Đúng lúc ấy con gái út của ông vừa tròn một tuổi, theo lệ phải cử hành lễ ‘chọn đồ vật’ (lễ trảo chu). Cô bé từ nhỏ đã trông khả ái, thông minh và rất được cha mẹ thương yêu. Mục Công liền đặt viên mỹ ngọc cùng những món đồ đủ loại màu sắc khác nhau vào khay đựng đồ vật. Cô bé chẳng buồn để ý đến bất cứ thứ gì khác, chỉ chộp lấy viên bích ngọc kia và say sưa chơi đùa. Vì vậy Tần Mục Công đã đặt tên cho con gái là Lộng Ngọc (nghĩa là chơi đùa với ngọc).

Lộng Ngọc lớn lên trở nên xinh đẹp tuyệt trần, lại có tính thông minh thiên phú và đặc biệt giỏi thổi sáo. Điều kỳ diệu là nàng không cần thầy chỉ dạy mà tự mình có thể thổi nên những khúc nhạc du dương. Mục Công bèn sai thợ khéo dùng viên bích ngọc mà con gái yêu thích nhất tạc thành một cây sáo ngọc. Khi Lộng Ngọc thổi, âm thanh cất lên tuyệt mỹ, nghe tựa như tiếng chim phượng hoàng hót vang. Mục Công càng thêm thương yêu con, cho xây một lâu đài làm nơi ở gọi là ‘phượng lâu’, ở phía trước phượng lâu lại dựng thêm một ‘phượng đài’.”

Khi Lộng Ngọc vừa tròn 15 tuổi, Tần Mục Công bắt đầu tìm chọn cho nàng một mối hôn nhân xứng đáng. Nhưng Lộng Ngọc hoàn toàn không hứng thú với các công tử, vương tôn được tiến cử. Nàng nói với cha rằng phu quân nàng nhất định phải là một người giỏi thổi tiêu, có thể cùng nàng hòa xướng. Mục Công sai người đi khắp nơi tìm kiếm nhưng vẫn không tìm được chàng trai nào như thế.

Tối hôm ấy Lộng Ngọc ngồi nhàn trước cửa sổ lầu phượng. Nàng ngẩng đầu nhìn bầu trời trong văn vắt, trăng sáng như gương, lòng dâng trào cảm xúc, bèn đốt một nén hương rồi lấy cây sáo ngọc ra thổi. Tiếng sáo trong trẻo du dương vang vọng lên tận trời xanh. Bỗng nhiên một điệu âm thanh thanh khiết theo gió truyền đến, hòa nhịp cùng tiếng sáo. Lộng Ngọc kinh ngạc dừng lại lắng nghe thì âm thanh kia cũng ngưng bặt, chỉ còn lại dư âm ngân vang trong khoảng không tĩnh lặng của màn đêm.

Đêm hôm ấy Lộng Ngọc có một giấc mơ kỳ lạ, trong mơ, một chàng trai tuấn tú cưỡi chim phượng nhiều màu sắc từ trên trời đáp xuống phượng đài. Chàng trai rút từ bên hông ra một cây tiêu dài chạm mỹ ngọc đỏ rồi thổi lên khúc nhạc tuyệt diệu chưa từng có. Con chim phượng cũng theo tiếng nhạc mà giang cánh ra vừa kêu hót vừa múa. Chàng trai tự xưng mình là chủ núi Hoa Sơn, cùng Lộng Ngọc có duyên phu thê trời định.

Ngày hôm sau Lộng Ngọc kể lại giấc mộng cho phụ vương nghe. Tần Mục Công tuy thấy chuyện kỳ lạ nhưng vì thương con gái nên liền phái người lên núi Hoa Sơn tìm hỏi. Sứ giả dò hỏi suốt chặng đường đi, quả nhiên tối hôm ấy, dưới mỏm núi Minh Tinh Nham ở Hoa Sơn trông thấy một người đầu đội mũ lông chim, khoác áo lông hạc, dung mạo tuấn mỹ, môi đỏ, phong thái siêu trần thoát tục. Sứ giả tiến lên bái kiến, biết được người ấy tên là Tiêu Sử, bèn hết lời thỉnh mời rồi đưa về yết kiến Tần Mục Công.

Mục Công nhìn thấy dung mạo siêu phàm của Tiêu Sử thì vô cùng mừng rỡ, vội ban chỗ ngồi, rồi mời chàng thổi sáo ngọc. Tiêu Sử vừa thổi xong một khúc liền có trận gió mát thoảng đến. Khi thổi đến khúc thứ hai chợt thấy mây ngũ sắc từ bốn phía bay tới, tụ lại trên không trung cung điện. Khi lúc khúc thứ ba kết thúc thì có đôi chim hạc trắng và chim công xuất hiện, tung cánh múa lượn giữa trời, trăm loài chim quanh đó cũng hòa giọng hót ca, hồi lâu mới tan đi. Mục Công hết sức vui mừng, còn ở sau rèm Lộng Ngọc càng thêm hoan hỷ, biết rằng đây chính là vị phu quân trong mộng của mình.

Khúc nhạc vừa dứt Mục Công thỉnh giáo Tiêu Sử về nguồn gốc của sáo và tiêu. Tiêu Sử đáp rằng sáo là do Nữ Oa chế tạo, mang ý nghĩa vạn vật sinh sôi phát triển, còn tiêu là do Phục Hy sáng tạo ra với ngụ ý là trong sạch, quét sạch. Chàng lại giảng giải tường tận quá trình biến đổi của hai loại nhạc khí này từ thời thượng cổ cho đến nay.

Mục Công bèn gả Lộng Ngọc cho Tiêu Sử, hai vợ chồng cùng sống ở lầu phượng. Sau khi thành hôn mọi người mới nhận ra Tiêu Sử quả thật chẳng phải kẻ phàm tục: chàng không ăn những món của khói lửa nhân gian, chỉ thỉnh thoảng uống vài chén rượu nhạt. Chàng còn dạy Lộng Ngọc phương pháp dẫn khí, dần dần cô cũng dứt bỏ ngũ cốc. Hai người thường hòa tấu sáo và tiêu, tiếng nhạc vang lên như tiên âm, thoát tục tuyệt trần.

Khoảng nửa năm sau, hai vợ chồng đang thổi nhạc trên đài phượng thì bỗng trên trời bay đến một con xích long cuộn mình bên phải đài, lại có một con phượng tím hạ xuống bên trái đài. Lúc này Tiêu Sử nói với Lộng Ngọc: “Ta vốn là tiên nhân nơi thượng giới, vâng mệnh Thượng Đế xuống nhân gian để chỉnh lý sách sử, đến nay đã hơn 110 năm rồi. Thượng Đế lệnh cho ta làm chủ núi Hoa Sơn, lại có mối duyên từ trước với nàng, nên khi ấy mới cùng nàng thổi tiêu ứng hoạ. Nhưng chúng ta không nên ở lâu nơi trần thế. Hôm nay rồng và phượng đến đón, chúng ta có thể trở về trời rồi”. Lộng Ngọc muốn đến từ biệt phụ vương nhưng Tiêu Sử lại nói: “Đã trở thành thần tiên thì phải dứt bỏ hết mọi vướng bận trần gian, sao còn có thể luyến tiếc người thân?”

Thế rồi Tiêu Sử cưỡi rồng, Lộng Ngọc cưỡi phượng. Đôi vợ chồng từ đài phượng bay lên, nhẹ nhàng bay vút qua mây trời mất hút. Tối hôm đó có người ở núi Hoa Sơn nghe được tiếng phượng hót.

Sáng sớm hôm sau cung nhân hoảng hốt chạy đến báo tin cho Tần Mục Công. Mục Công bàng hoàng hồi lâu rồi khẽ than rằng: “Chuyện thần tiên quả nhiên là có thật. Giờ nếu có rồng phượng đến đón quả nhân, quả nhân ắt sẽ bỏ giang sơn như bỏ chiếc giày rách vậy”. Mục Công liền sai người đến Hoa Sơn tìm kiếm nhưng hoàn toàn không thấy tung tích. Bèn truyền lệnh dựng một ngôi từ miếu ở ngọn Minh Tinh Nham – nơi lần đầu tiên trông thấy Tiêu Sử – để tế lễ, gọi là Tiêu Nữ Từ. Người ta nói rằng trong miếu thường vang lên tiếng phượng hót.

Tương truyền rằng vì ngưỡng mộ câu chuyện Tiêu Sử và Lộng Ngọc cưỡi rồng phượng bay lên trời mà người đời lấy rồng và phượng làm biểu tượng của hôn nhân. Tập tục ấy được lưu truyền cho đến ngày nay, dường như muốn nhắn nhủ với các đôi nam nữ nơi hồng trần rằng: mối duyên trời ban đích thực không phải chỉ để say đắm yêu đương hay cùng hưởng vinh hoa phú quý, mà là để nhắc nhở và khích lệ lẫn nhau, đừng quên đại nguyện vọng phản bổn quy chân, để một ngày kia cùng trở về thiên đình.

Ghi chú: Câu chuyện về Tiêu Sử và Lộng Ngọc từng được ghi chép vắn tắt trong Liệt Tiên Truyện, đồng thời cũng có lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Câu chuyện trên được biên dịch chủ yếu dựa theo tác phẩm Đông Chu Liệt Quốc Chí của Phùng Mộng Long đời Minh.

Nguồn: shenyuncollections.com